FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp bản án về tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
Trang |
1 |
Bản án số 222/2017/HS-PT ngày 30/12/2022 của Tòa án nhân dân Tỉnh Đắk Lắk Vụ án: “Về tội Trốn tránh nghĩa vụ quân sự” Nội dung vụ án: Năm 2016, Trần Thái H đủ tiêu chuẩn tham gia sơ tuyển nghĩa vụ quân sự năm 2016 nhưng không tham gia khám sơ tuyển và không có lý do chính đáng. Do đó, ngày 14-12-2015, Ban chỉ huy quân sự xã C đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với Trần Thái H về hành vi vi phạm quy định sơ tuyển thực hiện nghĩa vụ quân sự quy định tại Khoản 1, Điều 5 Nghị định 120/2013/NĐ-CP ngày 09-10-2013 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực Quốc phòng, cơ yếu. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã C đã ra Quyết định xử phạt hành chính số 273/QĐ-XPVPHC ngày 14-12-2015 đối với Trần Thái H về hành vi trên. Trần Thái H cũng là người đã trực tiếp đến nộp phạt tại Ủy ban nhân dân xã C. Năm 2017, Trần Thái H được giao trực tiếp Lệnh điều động. Tuy nhiên đến ngày 01-11-2016, là ngày khám sơ tuyển sức khỏe nghĩa vụ quân sự năm 2017, H lấy lý do đi làm rẫy cho gia đình và cố ý không tham gia sơ tuyển sức khỏe nghĩa vụ quân sự theo Lệnh điều động đã nhận được. Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã C đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính số 02/BB-VPHC ngày 03-11-2016 đối với Trần Thái H về hành vi trên. H là người trực tiếp ký tên trong biên bản vi phạm hành chính và công nhận sai phạm của bản thân. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Bị cáo Trần Thái H phạm tội: “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”. Áp dụng khoản 1 Điều 259; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự . Xử phạt: Bị cáo Trần Thái H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 23-5-2017. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06-6-2017 bị cáo Trần Thái H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Xét thấy Bản án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ : Bị cáo có nhân thân tốt, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn. Do bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo để sửa Bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật nhà nước ta. Tuy nhiên cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, như vậy mới phát huy được tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội. . Tòa án cấp phúc thẩm tuyên Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng khoản 1 Điều 259; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; sửa Bản án sơ thẩm số 96/2017/HS-ST ngày 31-5-2017 của Tòa án nhân dân thành phố B về phần quyết định hình phạt đối với bị cáo Trần Thái H. Xử phạt bị cáo TRẦN THÁI H 03 (ba) tháng tù về tội: “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 23/5/2017. Án phí: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/ /2016/UBTVQH14, bị cáo Trần Thái H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
|
01-04 |
2 |
Bản án số 05/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 tại Tòa án Nhân dân huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang Vụ án: “Về tội Trốn tránh nghĩa vụ quân sự” Nội dung vụ án: Căn cứ kết quả khám tuyển, ngày 06/01/2017, Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã Tả Phìn, huyện Đ, tỉnh H thâm nhập khám tuyển, công dân Sùng Mí D đủ tiêu chuẩn, đảm bảo lý lịch tham gia nghĩa vụ quân sự năm 2017. Ngày 12/01/2017 Ban Chỉ huy Quân sự huyện Đ đã ra Lệnh gọi nhập ngũ số 27/QS đối với công dân Sùng Mí D, D đã ký nhận Lệnh gọi nhập ngũ hồi 14 giờ 30 phút, ngày 19/01/2017 và nhận quà của UBND xã T., huyện Đ. Đến ngày 15/02/2017 công dân Sùng Mí D đã bỏ trốn khỏi địa bàn không có mặt tại Ban chỉ huy quân sự huyện Đ để giao nhận quân theo đúng thời gian quy định, cùng ngày Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã T đã lập biên bản vi phạm hành chính số 01/BB-VPHC đối với Sùng Mí D. Ngày 16/02/2017, UBND xã Tả Phìn huyện đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 01/QĐ-XPHC đối với công dân Sùng Mí D theo Nghị định số 120/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu với mức phạt tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), do Dia không có mặt tại địa phương, ngày 17/02/2017 UBND xã T, huyện Đ đã lập biên bản niêm yết công khai Quyết định xử lý vi phạm hành chính, thông báo đến gia đình D, mọi người dân trong thôn D, xã T biết việc Sùng Mí D bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự năm 2017. Đến ngày 12/3/2017, Dia gọi điện thoại cho vợ tên là Vàng Thị M, sinh năm 1998, D nói: "Hiện nay Dia đang làm thuê ở Trung Quốc không về, còn việc Dia trốn nghĩa vụ quân sự có sao không?", M nói cho D biết việc UBND xã T đã lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Dia về hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự, với số tiền phạt là 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) và giao cho gia đình vận động, liên lạc với Dia về nộp tiền phạt vi phạm hành chính và tiếp tục đi tham gia nghĩa vụ quân sự. Ngày 30/01/2018, Dia đã đến UBND xã T nộp tiền phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự năm 2017 nhưng không gặp được thủ quỹ, Dia đã ủy quyền cho Sùng Mí P, sinh ngày 21/12/1985, trú tại thôn D, xã T, huyện Đ, tỉnh H nộp hộ (Phà đã nộp hộ Dia vào ngày 07/02/2018). Ngày 07/02/2018, Ban Chỉ huy Quân sự huyện Đ đã ra Lệnh gọi nhập ngũ số 78/LNN đối với công dân Sùng Mí D, Dia đã ký nhận Lệnh gọi nhập ngũ hồi 10 giờ 58 phút, ngày 07/02/2017 và viết cam kết thực hiện nghĩa vụ quân sự năm 2018. Ngày 25/02/2018 Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã xuống xác minh thì được ông Sùng Sía P cung cấp: Ngày 23/02/2018, Sùng Mí D đã bỏ trốn đi đâu không thấy về và cũng không liên lạc được, Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã T đề nghị gia đình liên lạc với Dia trở về địa phương và tham gia nghĩa vụ quân sự năm 2018 theo Lệnh gọi nhập ngũ số 78/LNN, ngày 07/02/2018 mà D đã ký nhận nhưng gia đình không biết D đi đâu và không liên lạc được với D. Đến ngày 05/3/2018, Sùng Mí D không có mặt tham gia giao nhận quân tại Ban chỉ huy Quân sự huyện Đ theo đúng thời gian quy định. Ngày 30/03/2018 UBND xã T huyện Đ đã có văn bản số 10/CV-UBND về việc kiến nghị khởi tố đối với công dân trốn tránh nghĩa vụ quân sự năm 2018 và chuyển toàn bộ tài liệu, hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ giải quyết theo quy định của pháp luật. Cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 9 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tỉnh H đã truy tố bị cáo Sùng Mí D về tội: "Trốn tránh nghĩa vụ quân sự" theo quy định tại khoản 1 Điều 332 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa bị cáo Sùng Mí D đã thừa nhận hành vi Trốn tránh nghĩa vụ quân sự sau khi có lệnh gọi nhập ngũ số 27/LNN ngày 12/01/2017- 2018. Tòa cấp sơ thẩm nhận định: Tòa nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo Sùng Mí D đủ cấu thành tội "Trốn tránh nghĩa vụ quân sự " theo quy định tại khoản 1 Điều 332 Bộ luật Hình sự. Tòa cấp sơ thẩm tuyên: Áp dụng khoản 1 Điều 332; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. - Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng Mí D phạm tội: " Trốn tránh nghĩa vụ quân sự "; - Về Hình phạt: Xử phạt bị cáo Sùng Mí D 9 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt (ngày 21/01/2019) - Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Sùng Mí D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm; Ngoài ra, Tòa sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo.
|
05-11 |
3 |
Bản án số 117/2020/HS-PT ngày 07/12/2020 tại Tòa án Nhân dân tỉnh Bến Tre Vụ án: “Về tội Trốn tránh nghĩa vụ quân sự” Nội dung vụ án: Nguyễn Tường D là thanh niên trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Vào ngày 22/01/2019, Ban chỉ huy Quân sự huyện B có ban hành Lệnh gọi công dân nhập ngũ số: 66/LNN đối với Nguyễn Tường D , cha của D là ông Nguyễn Thành H có nhận Lệnh gọi nhập ngũ thay D và thông báo cho D biết thời gian địa điểm nhập ngũ vào ngày 18/02/2019. Đến ngày 18/02/2019, D không có mặt tại Ủy ban nhân dân xã A để nhập ngũ theo Lệnh gọi nhập ngũ nên đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Không có mặt đúng thời gian, địa điểm tập trung ghi trong Lệnh gọi công dân nhập ngũ” theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số: 120/2013/NĐ – CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu. Đến năm 2020, D tiếp tục trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, Ban chỉ huy Quân sự huyện B đã ban hành Lệnh gọi công dân nhập ngũ số 48/LNN ngày 14/01/2020, cha của D là ông Nguyễn Thành H có nhận Lệnh gọi nhập ngũ thay D và thông báo cho D biết thời gian địa điểm nhập ngũ vào ngày 10/02/2020 nhưng đến ngày 10/02/2020 D vẫn không có mặt tại Ủy ban nhân dân xã A để nhập ngũ theo Lệnh gọi nhập ngũ. Đến ngày 07/6/2020, Ủy ban nhân dân xã A có văn bản kiến nghị khởi tố hình sự đối với Nguyễn Tường D về tội “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tòa án nhân dân huyện B đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tường D phạm “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự”; Căn cứ khoản 1 Điều 332; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Tường D 09 (chín) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo theo luật định. Ngày 28-9-2020 bị cáo Nguyễn Tường D kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm cho bị cáo hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm khi áp dụng hình phạt đã xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có người thân trong gia đình có công với cách mạng theo quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cho rằng bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo yêu cầu được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ để đi làm thuê nuôi cha mẹ bị cáo, cha bị cáo là thương binh hạng 4/4, cả cha mẹ bị cáo đã lớn tuổi không còn khả năng lao động; hiện bị cáo bị bệnh trĩ, xẹp nhẹ trước đốt sống thắt lưng LN. Các tình tiết bị cáo đưa ra thuộc khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xét về hành vi, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước về an ninh quốc phòng, một lĩnh vực đặc biệt quan trọng của đất nước; bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi trốn tránh, không chấp hành theo lệnh gọi nhập ngũ của Ban chỉ huy quân sự huyện B , không thực hiện nghĩa vụ của công dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi bị cáo không thuộc trường hợp được miễn, hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự mà pháp luật quy định. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không có căn cứ để thay đổi biện pháp chấp hành hình phạt tù cho bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Căn cứ điểm a khoản 1 khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tường D; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 29/2020/HS-ST ngày 23-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre; Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tường D phạm “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự”. Áp dụng khoản 1 Điều 332; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Tường D 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù. Bị cáo Nguyễn Tường D phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về phần án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
|
12-15 |
4 |
Bản án số 31/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 tại Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An Vụ án: “Về tội Trốn tránh nghĩa vụ quân sự” Nội dung vụ án: Vào ngày 12/11/2018 Đàm Công L không chấp hành lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự theo quy định mà không có lý do chính đáng mặc dù đã được Ban chỉ huy quân sự xã Lam Sơn, huyện Đô Lương triệu tập hợp lệ các thủ tục để khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự năm 2019 theo quy định của luật nghĩa vụ quân sự. Bản thân Đàm Công L vào ngày 06/03/2018 đã bị Chủ tịch UBND xã Lam Sơn xử phạt hành chính về hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ. Vào cuối năm 2018, L tiếp tục có tên trong danh sách triệu tập để khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự năm 2019. Để thực hiện việc triệu tập Đàm Công L theo đúng quy định, vào hồi 09 giờ ngày 14/10/2018 anh Nguyễn Đình M là thôn đội trưởng xóm 14 xã Lam Sơn, Đô Lương, tỉnh Nghệ An, nơi Đàm Công L cư trú đã đến trực tiếp tại gia đình của Đàm Công L để giao Thông báo số 01 ngày 10/10/2018 của Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã Lam Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên do L không có mặt ở nhà nên anh Nguyễn Đình M đã giao thông báo này cho ông Đàm Công T là cha đẻ của Đàm Công L. Sau khi nhận thông báo thì vào ngày 18/10/2018 ông Đàm Công T đã giao trực tiếp thông báo này cho Đàm Công L, nên Đàm Công L biết việc mình tiếp tục bị triệu tập để khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự năm 2019. Vào hồi 13 giờ ngày 28/10/2018 anh Nguyễn Đình M tiếp tục đến gia đình Đàm Công L để giao Lệnh điều động khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự số 01 ngày 25/10/2018 của Ban chỉ huy quân sự xã Lam Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Nội dung Lệnh điều động khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự nêu rõ đúng 7 giờ 30 phút, ngày 12/11/2018 Đàm Công L phải có mặt tại Trạm y tế xã Lam Sơn, Đô Lương để khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên do Đàm Đàm L vẫn không có mặt ở nhà nên anh Nguyễn Đình M tiếp tục giao Lệnh này cho ông Đàm Công T là cha đẻ của L. Sau khi nhận lệnh ông Đàm Công T đã gọi điện thoại báo cho Đàm Công L và L biết rõ thông tin về việc L có Lệnh điều động khám sức khỏe nghĩa vụ năm 2019 vào ngày 12/11/2018. Tuy nhiên do không muốn khám tuyển để không bị gọi đi nghĩa vụ quân sự nên đến ngày 12/11/2018 khi Ban chỉ huy quân sự xã Lam Sơn tổ chức khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự thì Đàm Công L cố tình ở lại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An để làm việc mà không về Trạm y tế xã Lam Sơn, Đô Lương, để tham gia khám sức khỏe theo Lệnh điều động khám sức khỏe nghĩa vụ năm 2019. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Theo khoản 8 Điều 3 Luật nghĩa vụ quân sự năm 2015 quy định: “Trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự là hành vi không chấp hành lệnh gọi đăng ký nghĩa vụ quân sự; Lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự; Lệnh gọi nhập ngũ; Lệnh gọi tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu”. Hành vi không chấp hành lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự theo quy định mà không có lý do chính đáng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, mặc dù trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ của bị cáo Đàm Công L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự” theo khoản 1 Điều 332 BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Căn cứ vào khoản 1 Điều 332, các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên bố bị cáo Đàm Công L phạm tội “Trốn tránh nghĩa vụ quân sự”. Xử phạt: Bị cáo Đàm Công L 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 08/03/2019 đến ngày 17/03/2019. Về án phí: Buộc bị cáo Đàm Công L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Ngoài ra, Tòa sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo.
|
16-21 |
5 |
Bản án số 118/2020/HS-PT ngày 09/12/2020 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre Vụ án: “Về tội Trốn tránh nghĩa vụ quân sự” Nội dung vụ án: Vào ngày 22/01/2019, Ban chỉ huy Quân sự huyện Ba Tri có ban hành Lệnh gọi công dân nhập ngũ số: 66/LNN đối với L.C.T. T có nhận Lệnh gọi nhập ngũ và biết rõ thời gian địa điểm nhập ngũ vào ngày 18/02/2019. Đến ngày 18/02/2019 tập trung thì Trực bỏ lên Thành phố Hồ Chí Minh nhằm trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ quân sự theo Lệnh gọi nhập ngũ nên đã bị Chủ tịch UBND xã TH ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12/QĐ-XPVPHC ngày 13/03/2019 xử phạt về hành vi “không có mặt đúng thời gian hoặc địa điểm tập trung ghi trong lệnh gọi nhập ngũ mà không có lý do chính đáng” theo quy dinh tại khoản 11 Điều 7 Nghị định số: 120/2013/NĐ - CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu. Đến năm 2020, T tiếp tục trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, Ban chỉ huy Quân sự huyện Ba Tri đã ban hành Lệnh gọi công dân nhập ngũ số 48/LNN ngày 14/01/2020, cha của Trực là ông L.V.T kiên quyết không nhận Lệnh gọi nhập ngũ thay Trực. Ngày 21/01/2020, Ban chỉ huy Quân sự xã TH cùng Ban ngành đoàn thể ấp đến nhà L.C.T tiến hành làm việc với gia đình, thông qua Lệnh, gọi nhập ngũ cho L.C.T và gia đình cùng nghe nhưng L.C.T kiên quyết không nhận Lệnh gọi nhập ngũ. Dù biết rõ thời gian và địa điểm tập trung để nhập ngũ, nhưng đến ngày 10/02/2020 L.C.T vẫn không có mặt tại UBND xã TH để nhập ngũ theo Lệnh gọi công dân nhập ngũ đối với L.C.T. Đến ngày 04/6/2020, UBND xã TH có văn bản kiến nghị khởi tố hình sự đối với L.C.T về “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự” Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Bị cáo L.C.T phạm “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự”. Áp dụng khoản 1 Điều 332; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo L.C.T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo. Ngày 05/10/2020, bị cáo L.C.T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo 01 năm tù là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không được hưởng thêm tìnhtiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Đồng thời, khách thể của tội phạm màbị cáoxâm phạm là trật tự quản lý hành chính Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, vi phạm nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước nên cần phải xử nghiêm minh để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong khoảng thời gian nhất định mới đủsức cải tạo giáo dục bịcáovàrăn đephòng ngừa chung. Do đó, kháng cáo của bị cáo và quan điểm của người bào chữa cho bị cáo là không có căn cứ nên không được chấp nhận.; Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 1 Điều 332; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo L.C.T 01 (một) năm tù về “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: án phí hình sự phúc thẩm bị cáo L.C.T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
|
22-25 |
LINK PDF: Tổng hợp bản án về tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn
Các bài viết khác
- SÁCH CHUYÊN KHẢO LUẬT KINH TẾ
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG ĐIỀU TRA TỘI PHẠM SỬ DỤNG KHÔNG GIAN MẠNG XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA CỦA CƠ QUAN AN NINH ĐIỀU TRA, BỘ CÔNG AN VIỆT NAM
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP QUỐC GIA: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
- GIÁO TRÌNH LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2010
- Giáo trình: Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
- Giáo trình: Kỹ thuật soạn thảo văn bản
- SÁCH CHUYÊN KHẢO: HỆ THỐNG TƯ PHÁP HÌNH SỰ TRONG GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NỘI BỘ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC: HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI MUA BẤT ĐỘNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- TỔNG HỢP 20 BÀI BÁO PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG VÀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
- Tổng hợp 12 bài báo pháp lý bảo vệ quyền trẻ em trong vụ án bạo lực, bạo hành trẻ em
- TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN CÓ YÊU CẦU HỦY VI BẰNG ĐÃ LẬP
- TỔNG HỢP 12 BẢN ÁN VỀ TỘI “XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP”
- TỔNG HỢP 10 BẢN ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÓ YÊU CẦU THÁO DỠ CÔNG TRÌNH, DI DỜI VẬT, KIẾN TRÚC
- TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ MÔI GIỚI BẤT ĐỘNG SẢN