Trên cơ sở Báo cáo tổng hợp những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động Thi hành án dân sự và Kiểm sát thi hành án dân sự của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo Công văn số 1784/VKSTC-V11 ngày 22/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nội dung các câu hỏi, Vụ kiểm sát thi hành án dân sự (Vụ 11) đã biên tập lại các dạng câu hỏi khó khăn, vướng mắc, từ gần 200 câu hỏi thành 112 câu hỏi của các đơn vị để tham luận tại Hội nghị tập huấn Công tác kiểm sát thi hành án dân sự, hành chính năm 2017 tại Nghệ An vào ngày 24, 25/7/2017, cụ thể như sau:
Câu 1: Điểm a khoản 1 Điều 2 Luật THADS năm 2014 quy định về những bản án, quyết định được đưa ra thi hành “Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy, được hiểu là đối với phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm sẽ được đưa ra thi hành. Trên thực tế, có những phần của bản án, quyết định tuy không bị kháng cáo, kháng nghị nhưng nếu đưa ra thi hành sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án cũng như sẽ gây khó khăn trong quá trình thi hành án như việc tiêu hủy vật chứng. Do vậy, cần xem xét, sửa đổi bổ sung theo hướng: Đối với vật chứng của vụ án chỉ đến khi toàn bộ bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mới đưa ra thi hành?
Câu 2: Điểm a, khoản 2 Điều 2 Luật THADS năm 2014 thì: “Những bản án bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tổn thất tinh thần, cấp dưỡng, trả lương được đưa ra thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị, theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy những bản án này được đưa ra thi hành ngay khi chưa có hiệu lực, nhưng theo nội dung bản án thì kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật người phải thi hành án mới phải thi hành phần lãi suất do chậm thi hành án. Do đó trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án ngay khi bản án chưa có hiệu lực thì phần lãi suất có được đưa ra thi hành án ngay không? Nếu có thì thời điểm tính lãi suất từ thời điểm chậm thi hành án hay thời điểm án có hiệu lực pháp luật ?
Câu 3: Điều 7b Luật THADS năm 2014 quy định về Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi thi hành án đối với việc liên quan đến tổ chức tín dụng Ngân hàng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (người có tài sản bảo lãnh vay vốn Ngân hàng) không có quyền nộp tiền để chuộc lại tài sản theo khoản 5 Điều 101 Luật THADS năm 2014. Nhưng trong thực tế cơ quan THADS đều vận dụng cho những người có tài sản bảo lãnh cho người phải THA (người vay vốn) được thỏa thuận nộp tiền để họ chuộc lại tài sản theo giá khởi điểm hoặc bằng với giá theo thông báo bán đấu giá tại thời điểm. Như vậy giữa thực tiễn và quy định của pháp luật về THADS thấy còn có khoảng trống cần bổ sung kịp thời?
Câu 4: Điều 12 Luật THADS năm 2014 và Điều 28 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị đối với cơ quan, tổ chức có liên quan. Hiện nay, Luật THADS cũng như các văn bản hướng dẫn lại không quy định trách nhiệm và thời hạn Tòa án phải trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát. Do đó, thực tế hiện nay hầu hết các kiến nghị của Viện kiểm sát đều không được Tòa án, cơ quan THADS trả lời kiến nghị hoặc có trả lời nhưng rất chậm, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác kiểm sát, đề nghị có hướng dẫn cụ thể?
Câu 5: Điều 28 Luật THADS năm 2014 quy định đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án phải chuyển giao cho cơ quan THADS trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Với những bản án, quyết định của TAND cùng cấp chuyển giao cho cơ quan THADS thì việc chuyển giao là dễ dàng vì trong cùng phạm vi của địa phương. Nhưng đối với những bản án, quyết định của Tòa án cấp trên, chuyển giao xuống cho cơ quan THADS cấp dưới thì việc xác định thời hạn chuyển giao là khá khó khăn. Bởi vì việc chuyển giao phải thông qua đường bưu điện, đến khi cơ quan THADS nhận được bản án, quyết định đó thì đã quá hạn. Việc xác định vi phạm là khó khăn vì việc chuyển có thể do bên vận chuyển hoặc cũng có thể do Tòa án, nhưng để kiểm tra Tòa án cấp trên gửi đi từ ngày nào thủ tục rất phức tạp, phải kiểm tra sổ công văn đi, kiểm tra ngày bưu điện nhận tài liệu, kiểm tra ngày bưu điện chuyển đến, sổ công văn đến. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 6: Khoản 2 Điều 28 Luật THADS quy định: "Tòa án đã ra bản án, quyết định quy định tại các điểm a,b,c,d và g khoản 1 Điều 2 của Luật này phải chuyển giao bản án, quyết định đó cho cơ quan THADS có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật”.
Quy định này mâu thuẫn với Điều 254 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về việc chuyển giao bản án. Điều 254 BLTTHS quy định "Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra quyết định, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án hoặc quyết định phúc thẩm cho người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát,….cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền….”. Đề nghị giải thích?
Câu 7: Khoản 1 Điều 30 Luật THADS năm 2014 quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án. Điều Luật này được hiểu là quy định thời hiệu đối với việc thực hiện thi hành án theo yêu cầu. Tuy nhiên đối với một số đơn vị lại có quan điểm là áp dụng Điều 30 để tính thời hiệu đối với các quyết định thi hành án chủ động được quy định tại Khoản 2, Điều 36 Luật Thi hành án dân sự; nhận thức như vậy có đúng không?
Câu 8: Điểm đ, khoản 2, Điều 31 Luật THADS năm 2014 quy định: "Đơn yêu cầu phải có nội dung: Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nếu có …”. Quy định này không phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội và gây khó khăn, trở ngại trong hoạt động thi hành án dân sự, bởi vì người được thi hành án rất khó có thể xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án để ghi thông tin về tài sản của người thi hành án trong đơn yêu cầu thi hành án. Hoặc nếu có xác minh được thì kết quả xác minh đó thường là chưa đảm bảo tính chính xác, khách quan. Vì vậy điều luật đưa ra nội dung này mang tính hình thức, khó thực hiện trong thực tiễn. Đề nghị giải thích?
Câu 9: Khoản 1 Điều 30 Luật THADS năm 2014 quy định trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Đơn yêu cầu thi hành án phải có những nội dung liên quan đến nội dung của bản án, quyết định nếu không cơ quan THADS sẽ từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 31 Luật THADS năm 2014.
Sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì người được thi hành án có quyền quyết định việc làm đơn yêu cầu thi hành án hay không, vào thời điểm nào, yêu cầu nội dung gì? Luật chỉ quy định nội dung đơn yêu cầu thi hành án phải có những nội dung liên quan đến nội dung của bản án, quyết định. Trường hợp bản án tuyên phần cấp dưỡng nuôi con và lãi chậm thi hành án, nhưng khi làm đơn yêu cầu thi hành án, người được thi hành án chỉ yêu cầu phần tiền cấp dưỡng, không yêu cầu phần lãi suất đối với khoản tiền chậm thi hành án. Sau đó cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu đối với phần cấp dưỡng nuôi con (đúng như nội dung đơn yêu cầu là không bao gồm lãi suất chậm THA) vì theo quan điểm của Cơ quan THADS thì đây là quyền yêu cầu của người được thi hành án, họ yêu cầu phần nào thì ra quyết định phần đó, miễn là nội dung đó có liên quan đến nội dung của bản án, quyết định của Tòa án. Việc cơ quan THADS ra quyết định như vậy đúng hay sai? có vi phạm hay không?
Câu 10: Điểm h khoản 2 Điều 35 Luật THADS năm 2014 quy định “Bản án quyết định thuộc thẩm quyền thi hành án của cơ quan thi hành án cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều này mà thấy cần thiết lấy lên để thi hành".
Quy định "thấy cần thiết" là điều kiện để cơ quan THADS cấp tỉnh lấy lên để thi hành. Đến nay chưa có văn bản hướng dẫn thế nào là "thấy cần thiết" gây khó khăn cho việc thi hành án và kiểm sát thi hành án. Đề nghị giải thích rõ?
Câu 11: Khoản 1 Điều 36 Luật THADS năm 2014 quy định: “Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án khi có yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Thời hạn ra quyết định thi hành án theo yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án”.
Vướng mắc: Theo quy định trên thì sau khi bản án có hiệu lực, người được thi hành án có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án và trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án thì cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án theo yêu cầu. Tuy nhiên, trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án (ví dụ 03 tháng, 06 tháng…) thì thời hạn ra quyết định thi hành án là khi nào thì không có văn bản hướng dẫn. Có cơ quan thi hành án dân sự đợi đến hết thời hạn được ấn định trong bản án mới ra quyết định thi hành án, nhưng cũng có cơ quan thi hành án dân sự sau 05 ngày (khi có yêu cầu của người được thi hành án đối với những bản án đã có hiệu lực) ra quyết định thi hành án. Việc ra quyết định thi hành án khi chưa đến thời hạn ấn định thực hiện nghĩa vụ ảnh hưởng đến nghĩa vụ của người phải thi hành án, vì sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án thì người phải thi hành án sẽ bị áp dụng các biện pháp đảm bảo đối với tài sản thi hành án trong khi nghĩa vụ trả nợ chưa đến. Quá trình kiểm sát thi hành án phát hiện, tuy nhiên không có căn cứ pháp luật để kiến nghị, kháng nghị yêu cầu thu hồi hủy bỏ. Đề nghị quy định nội dung này trong Luật thi hành án dân sự hoặc có văn bản hướng dẫn cụ thể?
Câu 12: Điểm d khoản 2 Điều 36 Luật THADS năm 2014 quy định: “Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung công quỹ nhà nước”; Thực tiễn bản án tuyên yêu cầu các đương sự liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp huyện đề nghị điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc liên hệ với Ủy ban nhân dân để cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó khó cho công tác thi hành án đối với việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận khi cấp chỉ ghi tên một người, nhưng thực tế là tài sản chung, khi thi hành án các đương sự lại cho là tài sản riêng, do đó cũng khó khăn cho công tác xác minh thi hành án?
Câu 13: Khoản 4 Điều 39 Luật THADS năm 2014 quy định:“Chi phí thông báo do người phải thi hành án chịu, trừ trường hợp pháp luật quy định ngân sách nhà nước chi trả hoặc người được thi hành án chịu”. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể về mức thu của từng loại chi phí thông báo về thi hành án do người phải thi hành án, ngân sách nhà nước chi trả hoặc người thi hành án phải chịu?
Câu 14: Khoản 1 Điều 43 Luật THADS năm 2014 quy định: “Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi pháp luật có quy định hoặc khi đương sự có yêu cầu”. Như vậy, phương tiện thông tin đại chúng ở đây được hiểu là như thế nào? (báo, đài, truyền hình của Trung ương hay địa phương, báo mạng…có phù hợp hay không?) cần được hướng dẫn cụ thể, tránh cách hiểu không thống nhất, dễ xảy ra vi phạm?
Câu 15: Khoản 2 Điều 44, Luật THADS năm 2014 quy định: “Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng hoặc 01 năm phải tiến hành xác minh lại. Qua hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì Cơ quan THADS phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh”.
Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể về thời hạn ban hành thông báo kết quả xác minh điều kiện thi hành án cho người được thi hành án, dẫn đến việc áp dụng chưa có sự thống nhất ngay trong nội bộ của Cơ quan THADS và gây khó khăn cho quá trình kiểm sát của Viện kiểm sát. Đề nghị hướng dẫn để VKS thống nhất nhận thức?
Câu 16: Khoản 5 Điều 44 qui định:“Người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự”. Tuy nhiên, trong thực tế việc người được thi hành án tự mình xác minh điều kiện của người phải thi hành án là rất khó khăn và hầu như không đạt kết quả, vì thủ đoạn che giấu tài sản, thu nhập của người phải thi hành án ngày càng trở nên tinh vi, phức tạp và khó xác định hơn, như: Che giấu các nguồn thu nhập, tẩu tán tài sản bằng nhiều hình thức khác nhau, thay đổi chỗ ở liên tục nhưng không có sự trình báo với chính quyền địa phương… Đặc biệt khi người được thi hành án tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án tại các cơ quan Nhà nước, các cơ quan hữu quan khác thì việc yêu cầu các cơ quan đó cung cấp thông tin lại càng khó khăn, bởi các cơ quan đó cho rằng mình không có trách nhiệm phải cung cấp những thông tin cho người dân mà họ chỉ cung cấp cho những cơ quan Nhà nước khi có yêu cầu bằng văn bản. Đề nghị giải thích?
Câu 17: Khoản 6 Điều 44 Luật THADS năm 2014 quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện THA nhưng chưa qui định rõ trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp xã tham gia với tư cách là người đứng đầu chính quyền địa phương khi phối hợp với cơ quan THADS để xác minh điều kiện THA, cần phải qui định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của người đứng đầu chính quyền địa phương?
Câu 18: Điểm c, khoản 1 điều 44a Luật THADS năm 2014 qui định về điều kiện xác định việc chưa có điều kiện thi hành án là: “Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, …”. Trong khi đó, tại điểm b khoản 1 điều 48 Luật này cũng qui định một trong những điều kiện ra quyết định hoãn thi hành án là “Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án…”. Như vậy là có sự chồng chéo trong qui định của pháp luật về vấn đề này, dẫn đến việc cơ quan THADS có thể tự mình lựa chọn ra quyết định hoãn thi hành án hoặc ra quyết định xác định việc chưa có điều kiện thi hành án đều được; đề nghị giải thích rõ?
Câu 19: Thực tế việc thực hiện xác minh điều kiện thi hành án đối với một số việc THA chưa có điều kiện của cơ quan Thi hành án dân sự cho thấy, có một số trường hợp chưa có điều kiện thi hành án đã 10 năm. Tuy nhiên, khi Viện kiểm sát trực tiếp xác minh tại địa phương thì phát hiện đối tượng đã không có mặt tại địa phương từ lâu, hiện không rõ địa chỉ cư trú (thường gặp ở đối tượng nghiện ma túy, đã hết thời hạn chấp hành án về địa phương nhưng không có nơi cư trú rõ ràng). Cơ quan Thi hành án dân sự vẫn phải duy trì trong sổ theo dõi qua nhiều năm mà không có căn cứ để xử lý. Đây là một bất cập trong việc áp dụng pháp luật. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 20: Khoản 2 Điều 44a Luật THADS năm 2014 quy định: “Thông tin về tên, địa chỉ, nghĩa vụ phải thi hành của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành …và gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết…”.
Tại khoản 1 Điều 11 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án …; gửi quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết công khai. Thời gian niêm yết công khai quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án là 03 tháng, kể từ ngày niêm yết”.
Theo quy định trên, quyết định về việc chưa có điều kiện THA thì do UBND cấp xã niêm yết. Tuy vậy, Luật chưa quy định UBND cấp xã sau khi niêm yết phải gửi biên bản cho cơ quan THADS. Do đó, hồ sơ THA không có thủ tục thể hiện đã niêm yết quyết định về việc chưa có điều kiện THA, gây khó khăn cho việc xác định thời gian niêm yết công khai đối với việc chưa có điều kiện THA?
Câu 21: Khoản 1 Điều 46 Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy định “Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án”. Hiện nay đang có 02 cách hiểu khác nhau về vấn đề này, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Hết thời gian tự nguyện thi hành án người phải thi hành án có điều kiện thi hành án không tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên phải ban hành quyết định cưỡng chế ngay và tổ chức cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Quan điểm thứ hai: Pháp luật chưa quy định cụ thể về thời gian ban hành quyết định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế ( trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật thi hành án dân sự), do đó Chấp hành viên căn cứ vào tình hình thực tế việc tổ chức thi hành án để xử lý vụ việc thi hành án.
Do có sự hiểu, nhận thức về nội dung này chưa thống nhất, nên có vụ việc hết thời gian tự nguyện thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi hành, nhưng chưa xác minh xong về điều kiện thi hành án nên Chấp hành viên chưa áp dụng biện pháp cưỡng chế, bị coi là chậm tổ chức cưỡng chế thi hành án; ngược lại, có Chấp hành viên để hồ sơ, vụ việc kéo dài vài tháng, đến vài năm không áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc các biện pháp cưỡng chế. Đề nghị Vụ 11 hướng dẫn cụ thể vướng mắc này?
Câu 22: Điểm b khoản 2 Điều 47 Luật THADS năm 2014 quy định: "Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi hành án được thực hiện như sau: Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án nào thì thanh toán cho những người được thi hành án án đã có đơn yêu cầu tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó. Số tiền còn lại được thanh toán cho những người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán. Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án”.
Vướng mắc: Chưa có hướng dẫn đối với số tiền còn lại sau khi đã chi trả lần đầu theo quyết định cưỡng chế, thì việc chi trả lần sau cho những người được thi hành án tiếp theo, cơ quan thi hành án có phải ban hành một văn bản với hình thức như thế nào? Ví dụ: "Quyết định thu giữ số tiền còn lại để thi hành án". Chấp hành viên đã ra quyết định kê biên số tiền còn lại này. Ra quyết định như vậy là không đúng vì đối với tài sản là tiền, không áp dụng hình thức kê biên. Hơn nữa, số tiền còn này lại đang do Cơ quan thi hành án quản lý, không cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại hoặc trốn tránh việc thi hành án. Việc này vừa không đúng, vừa dẫn đến tình trạng chỉ có người được thi hành án có tên trong quyết định kê biên được thi hành án, còn những người khác lại không được vì lại áp dụng ngay chính điểm b khoản 2 Điều 47 nói trên. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 23: Khoản 3 Điều 47 Luật THADS năm 2014 quy định: “Trong trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp là bên được thi hành án hoặc trường hợp bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp, bị kê biên được ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ được bảo đảm sau khi trừ án phí của bản án, quyết định đó, chi phí cưỡng chế và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 Luật này.Trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp không phải là người được thi hành án thì người nhận cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán trước khi thanh toán các khoản theo quy định tại Điều này.”
Trường hợp xử lý tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để đảm bảo thi hành một nghĩa vụ cụ thể nhưng tài sản này không phải là tài sản của người phải thi hành án, mà là tài sản thuộc sở hữu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tài sản của bên thứ ba, bên bảo lãnh) thì khi thu được tiền từ việc xử lý tài sản trên không thể trừ án phí của bản án, quyết định cho bên thứ ba, bên bảo lãnh thay cho người phải thi hành án, vì trong quá trình tham gia ký kết hợp đồng bảo lãnh, cầm cố, thế chấp, tài sản của bên thứ ba, bên bảo lãnh chỉ đảm bảo đối với nghĩa vụ của người phải thi hành án với người được thi hành án, không đảm bảo nghĩa vụ của người phải thi hành án với nhà nước, khoản án phí nằm ngoài phạm vi bảo lãnh, thế chấp theo nội dung thỏa thuận trong hợp đồng. Vừa qua, Tổng cục THADS ban hành Công văn 1099/TCTHADS-NV1 hướng dẫn thanh toán theo khoản 3, Điều 47 Luật THADS, ở địa phương các Cục THADS và các Chi cục THADS đã căn cứ công văn trên thanh toán khoản án phí theo bản án khi xử lý tài sản của bên thứ ba bảo lãnh là không đúng quy định. Đề nghị Vụ 11 có hướng dẫn nội dung này?
Câu 24: Khoản 3 Điều 47 Luật THADS năm 2014 quy định về xử lý tài sản cầm cố, thế chấp; nhưng hiện nay thực hiện chỉ đạo của Chính phủ các Ngân hàng, các tổ chức khác cho vay tín chấp với số tiền rất lớn; khi cơ quan thi hành án kê biên xử lý tài sản tín chấp phía Ngân hàng, tổ chức cho vay không đồng ý, vì khi thanh toán họ không được ưu tiên thanh toán, ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng và tổ chức cho vay?
Câu 25: Điểm g, khoản 1 Điều 48 Luật THADS năm 2014 quy định hoãn THA khi “Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ THA theo qui định tại điều 54 của Luật này chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan”. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn về nội dung “sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan”. Đề nghị hướng dẫn cụ thể?
Câu 26: Điểm b, khoản 1 Điều 48 Luật THADS năm 2014 quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong trường hợp chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định.
Đến nay chưa có văn bản hướng dẫn về điều kiện hoãn thi hành án "vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định" nên thực tế việc áp dụng điều kiện hoãn thi hành án vì lý do trên còn tuỳ tiện, không thống nhất. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 27: Thực tế cho thấy việc áp dụng Điều 49 Luật THADS năm 2014 quy định về Tạm đình chỉ thi hành án chưa thực sự có hiệu quả và theo đúng tinh thần của các quy định pháp luật. Theo đó có hai trường hợp tạm đình chỉ thi hành án:
Thứ nhất: Thủ trưởng cơ quan THADS thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ hai: Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được thông báo của Tòa án về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án.
Tuy nhiên, quy định này lại bị phủ định bởi một số các quy định khác, như: Luật thi hành án dân sự năm 2014, tại Điều 103 về Bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án: “Trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác”. Đề nghị giải thích?
Câu 28: Điểm c, khoản 1 Điều 50 Luật THADS năm 2014 quy định: “Thủ trưởng cơ quan THADS phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”.
Như vậy, khi cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành án theo Điều 50 Luật THADS năm 2014 thì không được tổ chức thi hành án nữa. Biểu mẫu số D51-THA ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp cũng quy định việc yêu cầu đình chỉ thi hành án, thì không được quyền yêu cầu thi hành án trở lại. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 35 Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại quy định cùng một nội dung yêu cầu, cùng một thời điểm người yêu cầu chỉ có quyền làm đơn yêu cầu một văn phòng Thừa phát lại hoặc Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án.
Theo qui định trên, được hiểu cùng một thời điểm yêu cầu được xác định đương sự chỉ được lựa chọn một lần đối với Văn phòng Thừa phát lại hoặc cơ quan THADS để tổ chức thi hành đối với cùng một nội dung yêu cầu.
Vướng mắc: Có các quan điểm khác nhau về vấn đề này, khi đương sự rút đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành án thì đương sự có được tiếp tục làm đơn yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại tổ chức thi hành án hay không? Thực tế đã có tình trạng này nhưng luật chưa có văn bản quy định cụ thể, gây khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 29: Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật THADS năm 2014 quy định: “Đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự… ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”.
Việc quy định như vậy dẫn tới cách hiểu khác nhau, có nơi phải có đơn yêu cầu của người được thi hành án thì cơ quan THADS đình chỉ thi hành án, có những nơi chỉ cần biên bản làm việc giữa người được thi hành án và Chấp hành viên thì cũng đủ căn cứ để Thủ trưởng cơ quan THADS ra Quyết định đình chỉ. Đề nghị có hướng dẫn?
Câu 30: Điều 52 của Luật THADS năm 2014 quy định: “Việc thi hành án đương nhiên kết thúc thúc…”. Như vậy sẽ không có Quyết định kết thúc gửi cho Viện kiểm sát và người phải thi hành án. Từ quy định trên dẫn đến tình trạng Viện kiểm sát không nắm được số vụ việc thi hành xong, số vụ việc còn tồn đọng lâu, cũng như tiến độ giải quyết các vụ việc về THADS. Đới với những trường hợp CHV đã thi hành xong vụ việc, nhưng quên không gạch sổ thụ lý, dẫn đến vụ việc đó vẫn còn tồn đọng. Đề nghị có hướng dẫn cụ thể?
Câu 31: Khoản 2 Điều 54 Luật THADS năm 2014 quy định về việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án:“Trường hợp người được thi hành án, người phải thi hành án là cá nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Còn những trường hợp người phải thi hành án liên đới bồi thường nhưng họ đã chết mà không để lại tài sản thì xử lý như thế nào?
Câu 32: Khoản 2 Điều 54 Luật THADS năm 2014 quy định: “Trường hợp người được THA, người phải THA là cá nhân chết thì quyền, nghĩa vụ THA được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa kế”.
Hiện chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về “thủ tục chuyển giao”. Đề nghị Vụ 11 có hướng dẫn?
Câu 33: Điều 55 Luật THADS năm 2014 quy định: “Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác thi hành cho cơ quan nơi người phải THA thi hành có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở”. Như vậy, nơi làm việc của người phải THA là một cơ sở để cơ quan THADS tiến hành ủy thác THA. Nhưng luật chưa cụ thể hóa về nơi làm việc của người phải THA phải là nơi mà người có thời gian làm việc bao nhiêu lâu thì được ủy thác, có nhiều trường hợp xác minh được nơi làm việc để ủy thác, nhưng đến khi ủy thác thì họ không còn làm việc ở đó nữa vì người phải THA chỉ làm việc theo hợp đồng mùa, vụ. Đề nghị giải thích?
Câu 34: Khoản 2 Điều 57 Luật THADS năm 2014 và Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định thì cơ quan THADS nơi nhận uỷ thác không được trả lại quyết định uỷ thác cho cơ quan THA đã uỷ thác mà phải ra quyết định không có điều kiện thi hành khi chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 44a Luật THADS năm 2014. Quy định như vậy sẽ khó khăn trong trường hợp người phải THA không sinh sống cư trú hoặc không có tài sản ở địa phương, dẫn đến tình trạng tồn đọng kéo dài không thi hành được. Đề nghị hướng dẫn thêm?
Câu 35: Khoản 1, Điều 57 Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy định: “1. Trước khi ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác…”. Tức là ngay sau khi nhận được Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án chuyển giao cơ quan THADS đã xác định rõ người phải thi hành án không cư trú tại địa bàn nên có căn cứ để ra quyết định ủy thác thẳng. Tuy nhiên đối với Bản án có nhiều khoản phải thi hành trong đó có khoản tịch thu tiêu hủy tang vật cơ quan THADS chưa tiến hành việc thành lập Hội đồng để tiêu hủy tang vật theo Bản án đó.
VKS cho rằng chỉ khi nào cơ quan thi hành án dân sự thi hành xong khoản tiêu huỷ tang vật thì mới được uỷ thác khoản còn lại, như vậy mới đúng với quy định tại khoản 1, Điều 57 Luật THADS năm 2014.
Quan điểm của cơ quan THADS cho rằng đối với những tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản uỷ thác, thì cơ quan thi hành án mới cần phải xử lý trước khi thực hiện việc uỷ thác. Các tài sản có liên quan đến khoản uỷ thác theo quy định trên các trường hợp tài sản đã được tuyên kê biên hoặc được tuyên hoàn trả cho đương sự nhưng dùng để đảm bảo thi hành án. Còn đối với khoản tiêu huỷ tang vật không có liên quan đến các khoản phải thi hành khác. Do đó cơ quan THADS có thể thực hiện ngay việc uỷ thác mà không cần phải chờ tiêu huỷ tang vật xong.
Để có sự nhận thức đúng đắn trong việc áp dụng pháp luật đề nghị Viện kiểm sát Tối cao có hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này?
Câu 36: Điều 59 Luật THADS năm 2014 quy định trường hợp theo bản án, quyết định mà một bên được nhận tài sản và phải thanh toán cho người khác giá trị mà họ được nhận, nhưng tại thời điểm thi hành án, giá trị tài sản thay đổi và một trong các bên đương sự có yêu cầu định giá lại tài sản đó thì tài sản được định giá theo quy định tại Điều 98 của Luật này để thi hành.
Điều 17 Nghị Định 62/2015/NĐ-CP lại không nêu rõ trường hợp cụ thể nào thì được áp dụng Điều 59 do đó đã dẫn đến nhận thức và áp dụng còn chưa thống nhất. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 37: Quan điểm của mỗi cơ quan trong việc xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS đối với các khoản nộp ngân sách Nhà nước được quy định tại các Điều 61, 62, 63, 64 của Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT ngày 15/9/2015 có nhiều cách hiểu khác nhau, cụ thể:
– Quan điểm của cơ quan Thi hành án dân sự: Thủ tục xác minh điều kiện thi hành án theo đúng quy định của Điều 44 Luật THADS và chỉ cần tiến hành qua chính quyền địa phương, xác định rõ người phải thi hành án không có tài sản (về nhà, đất và các tài sản là động sản), thu nhập và các điều kiện khác.
– Quan điểm của Viện kiểm sát: Khi xác minh đối với người phải THA thì phải tiến hành xác minh qua Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai xem người phải thi hành án có quyền sử dụng đất hay không thì mới có đủ điều kiện để xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án.
Tuy nhiên việc xác minh qua Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai là rất khó khăn, vì cơ quan này yêu cầu phải cung cấp được số thửa, số tờ bản đồ thì mới tra cứu được đất đó đứng tên ai, trong khi đó nhiều trường họp chính quyền địa phương không thể cung cấp cho cơ quan Thi hành án dân sự được. Đề nghị Vụ 11 có hướng dẫn cụ thể?
Câu 38: Đối với các hồ sơ miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án các khoản thu nộp Ngân sách Nhà nước do cơ quan THADS cấp tỉnh đề nghị. Do Luật quy định Tòa án cấp huyện nơi đóng trụ sở cơ quan THADS có thẩm quyền thực hiện việc xét miễn giảm. Đồng thời để Phòng 11 tập trung thực hiện chức năng kháng nghị phúc thẩm, thấy nên ủy quyền cho Viện Kiểm sát cấp huyện thực hiện thủ tục “Cho ý kiến” đối với các hồ sơ miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu nộp Ngân sách Nhà nước do cơ quan THADS cấp tỉnh đề nghị. Tuy nhiên chưa thấy căn cứ và cơ sở pháp lý về việc ủy quyền. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 39: Điều 61 Luật THADS quy định về điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án; Điều 23 Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước có quy định khoản thuộc diện được xét miễn, giảm thi hành án là lãi chậm thi hành án đối với khoản được miễn, giảm (nếu có).
Việc tính lãi chậm thi hành án đối với khoản được miễn, giảm được xét riêng hay được cộng cả vào các khoản được xét miễn giảm. Đề nghị Viện KSND tối cao hướng dẫn áp dụng cho thống nhất?
Câu 40: Khoản 1 Điều 62 Luật THADS năm 2014 qui định hồ sơ đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét miễn, giảm nghĩa vụ THA gồm có tài liệu là “Văn bản đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ THA của Thủ trưởng cơ quan THADS hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát trong trường hợp đề nghị xét miễn, giảm khoản tiền phạt”. Tuy nhiên, khi miễn khoản tiền án phí, lệ phí có cần tài liệu này không, hiện không có văn bản hướng dẫn. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 41: Khoản 3 Điều 63 Luật THADS năm 2014 quy định “…Khi tiến hành xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, đại diện cơ quan thi hành án dân sự trình bày tóm tắt hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm; đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm. Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến đại diện của Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, Thẩm phán ra quyết định chấp nhận, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án”.
Vậy việc xét miễn, giảm thi hành án nghĩa vụ vụ nộp Ngân sách Nhà nước có trường hợp hồ sơ xét miễn giảm thi hành án đã chuyển sang Tòa án, Tòa án đã ra thông báo mở phiên họp xét miễn nghĩa vụ thi hành án mà người phải thi hành án lại nộp hết số tiền đề nghị miễn nghĩa vụ thi hành án của Chi cục Thi hành án trước thời điểm mở phiên họp. Tại phiên họp, Chi cục Thi hành án xin rút hồ sơ đề nghị miễn nghĩa vụ thi hành án trên, Tòa án đồng ý việc rút hồ sơ trên và ra quyết định đình chỉ việc thi hành án trên có đúng không? Điều 9 Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT thì Tòa án ra các quyết định chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận chứ không quy định trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ hồ sơ miễn thi hành án? Đề nghị hướng dẫn về căn cứ để giải quyết trường hợp trên?
Câu 42: Khoản 2 Điều 66 Luật THADS năm 2014 qui định: “Người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường”.
Tuy nhiên, Luật không qui định người yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm phải nộp tiền trước để đảm bảo cho việc bồi thường thiệt hại. Do đó, dẫn đến việc trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại thì sẽ rất khó khăn trong việc giải quyết bồi thường. Đề nghị hướng dẫn?
Câu 43: Khoản 2 Điều 67 Luật THADS năm 2014 quy định: “…Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải thực hiện ngay yêu cầu của Chấp hành viên về phong toả tài khoản, tài sản…”
Như vậy, thế nào được hiểu là phải thực hiện ngay? Bởi, thực tế hiện nay, một số Ngân hàng muốn giữ khách hàng, tôn trọng việc gửi tài sản của khách hàng, nên việc hợp tác của họ là chưa cao, không muốn làm việc với cơ quan thi hành án dân sự, bằng cách họ chưa thực hiện ngay mà muốn có thời gian để báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị. Dẫn đến khó khăn cho công tác phong toả tài khoản để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án, bởi vô hình chung đây có thể là cơ hội tạo điều kiện cho người phải thi hành án có thời gian tẩu tán tài sản, không thực hiện nghĩa vụ phải thi hành án. Vì vậy, cần có quy định thời gian cụ thể đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải thực hiện ngay yêu cầu của Chấp hành viên về phong toả tài khoản, tài sản nêu trên?
Câu 44: Khoản 1, Điều 68 Luật THADS năm 2014 quy định về yêu cầu lực lượng hỗ trợ chấp hành viên để tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, chỉ quy định ngắn gọn “… Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ”. Trong quá trình thực hiện đương sự chống đối, chấp hành viên đề nghị lực lượng công an hỗ trợ để thực hiện việc tạm giữ nhưng gặp khó khăn, lực lượng công an từ chối với lý do theo quy định của Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an chỉ quy định về phối hợp bảo về cưỡng chế trong thi hành án dân sự, còn việc hỗ trợ chấp hành viên tạm giữ tài sản do chưa có văn bản quy định cho nên không cử lực lượng tham gia. Đề nghị có hướng dẫn?
Câu 45: Khoản 3 Điều 68 Luật THADS năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật không quy định việc tạm giữ giấy tờ phải có sự tham gia của Viện kiểm sát. Tuy nhiên tại Mẫu biểu D39 (Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ) theo Thông tư 01/2016/TT-BTP hướng dẫn một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự có in sẵn thành phần tham gia là đại diện Viện kiểm sát. Vậy, việc tham gia của đại diện Viện kiểm sát có phải là yêu cầu bắt buộc khi tạm giữ tài sản, giấy tờ hay không?
Câu 46: Điều 71 Luật THADS năm 2014 quy định về các biện pháp cưỡng chế buộc chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. Đây là biện pháp không khả thi, người phải thi hành án không giao hoặc hủy hoại giấy tờ, người có thẩm quyền thi hành án không nhận được giấy tờ để trả lại cho người được thi hành án đối với giấy tờ có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản do chế tài không đủ mạnh. Đề nghị Vụ 11 có hướng dẫn?
Câu 47: Khoản 2 Điều 72 Luật THADS năm 2014 quy định về các nội dung chính của Kế hoạch cưỡng chế thi hành án trong đó có thời gian, địa điểm cưỡng chế.
Trên thực tế có rất nhiều vụ việc phải hoãn tiến hành cưỡng chế vì nhiều lý do. Tuy nhiên, hiện nay Luật THADS năm 2014 cũng như các văn bản liên quan không quy định thời gian hoãn việc cưỡng chế là bao nhiêu ngày. Vì vậy, dẫn đến việc một số cơ quan THADS đã ban hành Kế hoạch, xác định thời gian cưỡng chế, nhưng sau đó lại hoãn vô thời hạn, điều này gây không ít khó khăn cho công tác kiểm sát thi hành án, đây cũng là cách mà các cơ quan THADS thực hiện nhằm kéo dài thời gian thi hành án đối với những vụ việc có tính chất phức tạp. Đề nghị có hướng dẫn cụ thể?
Câu 48: Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 thì Chấp hành viên không có quyền tự xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, tuy nhiên tại Điểm c Khoản 2 Nghị định 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ lại cho phép "Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết”. Như vậy, Nghị định 62/2015/NĐ-CP đã mở rộng quyền cho Chấp hành viên nhưng lại không đúng với quy định của Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Đề nghị có hướng dẫn?
Câu 49: Khoản 1 Điều 74 Luật THADS 2014 quy định trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Nếu người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản họ không chịu tự thỏa thuận phân chia tài sản, lúc này tòa án sẽ giải quyết việc phân chia tài sản cần có các tài liệu liên quan của đương sự về công sức đóng góp trong khối tài sản chung đó làm căn cứ để tòa án giải quyết việc phân chia tài sản. Khi người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản của họ và họ không phối hợp với cơ quan THADS thì Tòa án không thể phân chia tài sản chung được, nên việc thi hành án trong trường hợp này không thể thực hiện được. Đề nghị Vụ 11 hướng dẫn?
TRA CỨU TOÀN VĂN TÀI LIỆU TẠI ĐÂY
NGUỒN: TÀI LIỆU TẬP HUẤN CÔNG TÁC KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ, HÀNH CHÍNH NĂM 2017 CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO (Dẫn từ Thông tin Pháp luật Dân sự)
Các bài viết khác
- SÁCH THAM KHẢO: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG - NHỮNG ĐIỀU DOANH NHÂN CẦN BIẾT
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRỰC TIẾP CẤP CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: QUYỀN HƯỞNG DỤNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
- GIÁO TRÌNH LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
- CẨM NANG QUẢN TRỊ CÔNG TY 2025
- GIÁO TRÌNH LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
- GIÁO TRÌNH LUẬT NGÂN HÀNG VIỆT NAM
- GIÁO TRÌNH LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (PHẦN CHUNG)
- GIÁO TRÌNH LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (PHẦN CÁC TỘI PHẠM)
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN TƯ NHÂN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- LUẬN ÁN TIẾN SĨ: BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
- Tài liệu Hội thảo trao đổi kinh nghiệm về Chế định Kiểm sát tố tụng công ích Trung Quốc
- SÁCH PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH (TẬP 1)
- SÁCH CHUYÊN KHẢO: TÒA ÁN VIỆT VAM TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN