Phán quyết trọng tài số 09/17 ngày 26/9/2017 của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) trong vụ trọng tài giữa Công ty TNHH nhà hàng J và Công ty TNHH quốc tế G.
Nội dung tranh chấp:
Ngày 21/10/2015, Công ty TNHH quốc tế G (viết tắt là Bên liên quan) ký Hợp đồng cho thuê khu bán lẻ với Công ty TNHH nhà hàng J (viết tắt là Bên yêu cầu). Theo đó, Bên liên quan cho thuê khu bán lẻ tại tầng 01 khu bán lẻ thuộc tòa nhà K Hanoi Landmark Tower, phường M T, quận N T L, TP. Hà Nội với diện tích 842,01m2 để Bên yêu cầu mở nhà hàng. Thời hạn thuê từ ngày 21/10/2015 đến ngày 20/10/2020 giá thuê từ ngày 21/10/2015 đến ngày 31/12/2015 là 331.191.000 VND/tháng. Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 20/10/2016 giá cho thuê hàng tháng sẽ được điều chỉnh tăng 5% so với mức giá áp dụng trong giai đoạn từ ngày 21/10/2015 đến ngày 31/12/2015. Từ ngày 21/10/2016 đến ngày 20/10/2020 đơn giá cho thuê hàng tháng sẽ được điều chỉnh tăng 5% so với mức giá áp dụng cho tháng trước tại ngày 21/10 hàng năm. Giá thuê trên có hiệu lực từ thời điểm ký Hợp đồng và chưa bao gồm các loại thuế theo quy định của pháp luật hiện hành.
Theo hợp đồng, Bên yêu cầu phải đặt cọc cho Bên liên quan vào ngày ký hợp đồng một khoản tiền là 1.365.000.000 VND. Việc thanh toán tiền thuê sẽ được thực hiện 03 tháng một lần vào ngày đầu tiên của kỳ thanh toán. Trường hợp không thanh toán đúng hạn, Bên yêu cầu sẽ phải trả cho Bên liên quan tiền lãi cho tổng số tiền quá hạn với lãi suất bằng 0,003% một ngày kể từ ngày đến hạn cho tới ngày thanh toán đầy đủ. Nếu Bên yêu cầu không thanh toán đúng hạn khoản tiền thuê,
Bên liên quan sẽ tự động trừ khoản tiền này trong số tiền đặt cọc. Trường hợp khoản tiền quá hạn vượt quá 70% của số tiền đặt cọc, Bên liên quan có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Sau khi giao kết hợp đồng ngày 21/10/2015, Bên liên quan đã tiến hành bàn giao khu vực thuê cho Bên yêu cầu và Bên yêu cầu đã mở nhà hàng, tiến hành kinh doanh theo thoả thuận. Tuy vậy, sau đó Bên yêu cầu đã không thực hiện nghĩa đặt cọc theo Điều 3 của hợp đồng mặc dù Bên liên quan đã nhiều lần có công văn yêu cầu.
Ngày 16/05/2016, hai bên ký “Biên bản điều chỉnh 1” của hợp đồng ngày 21/10/2015 (sau đây gọi là Biên bản ngày 16/05/2016), theo đó giá thuê sẽ được thanh toán vào ngày 21 hàng tháng. Trường hợp Bên yêu cầu không thanh toán đúng hạn khoản tiền thuê, Bên liên quan sẽ tự động trừ khoản tiền đó trong số tiền đặt cọc. Trường hợp khoản tiền quá hạn vượt quá 70% của số tiền đặt cọc, Bên liên quan có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Việc chấm dứt hợp đồng sẽ có hiệu lực ngay sau khi Bên liên quan gửi thông báo bằng văn bản cho Bên yêu cầu. Sau khi ký Biên bản ngày 16/05/2016, Bên yêu cầu vẫn không thực hiện nghĩa vụ đặt cọc đồng thời tiếp tục vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận. Tính đến thời điểm nộp Đơn khởi kiện, Bên yêu cầu đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với tiền thuê của các tháng 11/2016, 12/2016 và 01/2017 mỗi tháng là 401.651.886 VND.
Ngày 27/12/2016, Bên liên quan đã gửi thông báo bằng văn bản chấm dứt hợp đồng và yêu cầu Bên yêu cầu thanh toán tiền thuê. Tuy vậy, Bên yêu cầu không có bất cứ phản hồi nào sau khi nhận được thông báo nêu trên, đồng thời vẫn tiếp tục sử dụng khu vực thuê mà không bàn giao lại cho Bên liên quan.
Theo “Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện” đề ngày 29/05/2017, Bên liên quan xác nhận Bên yêu cầu đã thanh toán cho Bên liên quan vào ngày 23/01/2017 tiền thuê tháng 11, 12/2016; vào ngày 07/03/2017 trả tiếp tiền thuê tháng 01/2017 nhưng Bên yêu cầu vẫn tiếp tục vi phạm nghĩa vụ bàn giao, hoàn trả mặt bằng thuê theo hợp đồng cho Bên liên quan.
Tại phiên họp ngày 31/05/2017, Bên liên quan trình bày: Bên liên quan đã gửi Bên yêu cầu văn thư đề ngày 22/08/2016 tuyên bố chấm dứt hợp đồng vì Bên yêu cầu không đặt cọc nhưng nay xin rút lại văn thư này vì hợp đồng không quy định về chấm dứt hợp đồng nếu Bên yêu cầu không đặt cọc. Sau đó, theo hợp đồng quy định Bên liên quan đã gửi thông báo chấm dứt hợp đồng đề ngày 27/12/2016, có hiệu lực ngay tuy vậy, Bên liên quan có thể chấp nhận chấm dứt hợp đồng từ ngày 21/01/2017 (kỳ trả tiền tiếp theo). Bên yêu cầu xác nhận đã nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng đề ngày 27/12/2016 của Bên liên quan.
Bên liên quan không chấp nhận đề nghị của Bên yêu cầu về việc hoãn thời gian thanh toán đến cuối tháng 06/2017 đối với khoản tiền sử dụng mặt bằng là 1.740.491.506 VND. Đối với khoản tiền lãi 2.771.396 VND, Bên yêu cầu hứa trả trong vòng vài ngày sau phiên họp nhưng Bên liên quan không có ý kiến gì về việc này.
Bên liên quan cho rằng, Bên yêu cầu đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền lãi, tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng sau khi hợp đồng chấm dứt và nghĩa vụ bàn giao, hoàn trả mặt bằng thuê cho Bên liên quan. Bên liên quan đã thực hiện đúng mọi thỏa thuận giữa hai bên. Căn cứ vào hợp đồng và các quy định của pháp luật, Bên yêu cầu phải thanh toán tiền lãi, tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng sau khi hợp đồng chấm dứt và nghĩa vụ bàn giao, hoàn trả mặt bằng thuê cho Bên liên quan.
Bên liên quan khởi kiện yêu cầu Bên yêu cầu thanh toán tổng số tiền là 1.206.088.315 VND bao gồm tiền thuê mặt bằng và tiền lãi phát sinh. Tại Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đề ngày 29/05/2017, Bên liên quan đề nghị Hội đồng trọng tài buộc Bên yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Bên liên quan khu vực cho thuê; buộc Bên yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng sau khi hợp đồng chấm dứt mà không bàn giao, hoàn trả mặt bằng thuê cho Bên liên quan với số tiền là 1.740.491.506 VND (thời gian từ ngày 21/01/2017 đến ngày 31/05/2017); buộc Bên yêu cầu thanh toán cho Bên liên quan khoản tiền lãi chậm thanh toán đối với khoản tiền thuê các tháng 11/2016, 12/2016 và 01/2017 là 2.771.396 VND, tính theo hợp đồng ngày 21/10/2015. Tổng cộng số tiền Bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan tính đến ngày 31/05/2017 là 1.743.262.904 VND.
Bên yêu cầu cho rằng, trong Bản tường thuật bào chữa đề ngày 20/04/2017 và tại phiên họp ngày 31/05/2017, Bên yêu cầu nêu một số lý do cho việc không thể trả ngay tiền thuê nhà, như tình hình kinh tế khó khăn, 11 nhà hàng H Q ở khu vực K mở theo nhà hàng của Bên yêu cầu khiến lượng khách bị giảm mạnh, hiện tại máy điều hòa theo hình thức máy lạnh trung tâm được lắp đạt có công suất còn thiếu và hay bị hỏng, thậm chí còn hay xảy ra trường hợp bị rò rỉ nước, nước rỏ xuống từ trần nhà. Đặc biệt năm 2015, nguyên nhân lớn nhất khiến nhà hàng giảm khách là do hệ thống máy lạnh không hoạt động được. Hơn nữa, tính năng của hệ thống thoát khí cũng không tốt nên trường hợp khi nướng thịt trực tiếp trên bàn như đặc trưng của nhà hàng H Q thì khói không thoát hết ra được nên khách hàng bày tỏ rất nhiều sự bất mãn. Theo Bên yêu cầu thì những vấn đề như vậy đương nhiên là Bên liên quan cũng có phần trách nhiệm, Bên yêu cầu đã liên tục đưa ra vấn đề này nhưng vẫn chưa được giải quyết. Để giải quyết vấn đề, Bên yêu cầu cũng đã tự mua 12 máy điều hòa để lắp đặt rồi và cũng đã yêu cầu với công ty quản lý trực tiếp tòa nhà nhưng Bên liên quan cũng không có những chỉ đạo tích cực và về căn bản tình hình vẫn chưa được giải quyết.
Hiện tại Bên liên quan vẫn chưa phát hành hóa đơn đỏ từ tháng 01/2017 nên Bên yêu cầu không thể trả tiền thuê nhà. Bên liên quan đã trả lời tại phiên họp ngày 31/05/2017 là theo hợp đồng, sau khi nhận được tiền thuê nhà, Bên liên quan sẽ phát hành hóa đơn như nhiều lần trả tiền trước đây, Bên yêu cầu đều có hóa đơn đỏ sau khi trả tiền. Bên yêu cầu không có ý kiến gì về phản hồi này của Bên liên quan.
Tại phiên họp ngày 31/05/2017, Bên yêu cầu xác nhận mọi số liệu về tiền thuê, tiền lãi và tiền sử dụng mặt bằng nêu trong Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đề ngày 29/05/2017 của Bên liên quan là đúng và đề nghị Bên liên quan cho hoãn thời gian thanh toán đến cuối tháng 06/2017 đối với khoản tiền sử dụng mặt bằng 1.740.491.506 VND. Đối với khoản tiền lãi 2.771.396 VND, Bên yêu cầu hứa trả trong vòng vài ngày sau phiên họp.
Bên yêu cầu đề nghị Hội đồng trọng tài yêu cầu Bên liên quan phát hành hóa đơn đỏ từ tháng 01/2017 cho Bên yêu cầu để Bên yêu cầu nộp tiền thuê nhà và đề nghị Bên liên quan cho trả chậm vào cuối tháng 06/2017 toàn bộ số tiền mà Bên yêu cầu đã chấp nhận nêu trong Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đề ngày 29/05/2017 của Bên liên quan. Bên yêu cầu cũng đề nghị Hội đồng trọng tài không công nhận việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của Bên liên quan và mong muốn tiếp tục duy trì và thực hiện hợp đồng thuê kèm với cam kết sẽ tuân thủ đúng các nghĩa vụ thanh toán tiền thuê trong tương lai.
Phán quyết trọng tài:
- Buộc Bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan số tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng sau khi hợp đồng chấm dứt là 1.740.491.506 VND;
- Bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan khoản tiền lãi chậm thanh toán là 2.771.396 VND;
- Bên yêu cầu phải chịu toàn bộ phí trọng tài trong Vụ tranh chấp với số tiền là 118.504.000 VND. Do Bên liên quan đã nộp toàn bộ phí trọng tài trong Vụ tranh chấp, Bên yêu cầu phải hoàn trả cho Bên liên quan phí trọng tài là 118.504.000 VND;
- Bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan các khoản tiền nêu trên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập Phán quyết trọng tài. Trường hợp Bên yêu cầu chậm thanh toán các khoản tiền nêu trên thì Bên yêu cầu còn phải chịu tiền lãi phát sinh theo Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 với mức lãi suất bằng 10%/năm, trên tổng số tiền chậm trả.
Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập Phán quyết trọng tài, Bên yêu cầu phải hoàn trả cho Bên liên quan khu vực thuê nêu tại Điều 1.1 của Hợp đồng cho thuê khu bán lẻ ký ngày 21/10/2015.
Thông tin phán quyết tại Quyết định số 09/2017/QĐ-PQTT ngày 28/9/2017 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội
|