DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT

Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp xử lý kỷ luật lao động theo hình thức buộc thôi việc
Ngày đăng: 10/06/2024

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp xử lý kỷ luật lao động theo hình thức buộc thôi việc” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp. 

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp xử lý kỷ luật lao động theo hình thức buộc thôi việc

 

STT

NỘI DUNG

TRANG

   1

Bản án số: : 01/2017/LĐ-ST ngày 27/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện CX, tỉnh HT

Về: Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức buộc thôi việc

Nội dung:

- Chị Nguyễn Thị H bắt đầu làm việc tại quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B kể từ ngày 1/7/2013. Ngày 14/9/2015 chị H có đơn xin nghỉ thai sản kể từ ngày 14/9/2015 đến ngày 14/3/2016 và được quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B chấp nhận. Ngày 14/3/2016 chị H tiếp tục đi làm, ngày 17/6/2016 do sơ suất chị H làm mất chìa khóa két sắt của quỹ tín dụng. Thời điểm làm mất 3 chìa khóa két sắt vào ngày nghỉ thứ bảy. Sau khi phát hiện mất chìa khóa két, ngày 20/06/2016 (thứ hai) chị H đã trực tiếp báo cáo với Giám đốc quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B. Để đảm bảo an toàn cho quỹ, quỹ tín dụng xã Cẩm B đã đưa chìa khóa két dự phòng đang cất giữ tại Ngân hàng Nhà Nước tỉnh HT về. Chị H đã bỏ ra 10.000.000 đồng để mua két sắt mới và bàn giao két sắt cùng với 8 chìa khóa cho quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 24/06/2016.

- Ngày 17/7/2016 Quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B ra Quyết định số 15/TB-HĐQT tạm đình chỉ công việc của chị Hthời hạn 90 ngày.

- Ngày 12/12/2016 quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B họp hội đồng kỷ luật để xử lý kỷ luật chị H. Ngày 29/12/2016 quỹ tín dụng xã Cẩm B có quyết định số 37/QĐ-GĐ buộc thôi việc chị Nguyễn Thị H với lý do làm mất chìa khóa két sắt của Quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B; quyết định buộc thôi việc có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017.

- Chị H có đơn khởi kiên về việc bị buộc thôi việc trái pháp luật. Chị H yêu cầu tòa án buộc quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B trả lại số tiền 6.000.000 đồng trên tổng số tiền 10.000.000 đồng mà chị H đã bỏ ra mua két sắt; yêu cầu tòa án hủy quyết định buộc thôi việc của quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B yêu cầu quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B nhận chị trở lại làm việc, đồng thời khôi phục mọi quyền lợi cho chị theo quy định của pháp luật; phải trả toàn bộ tiền lương trong những ngày chị không được làm việc cộng với 02 tháng tiền lương: Tổng số tiền tạm tính đến ngày 27/10/2017 là: 52.764.600

Tòa án sơ thẩm nhận định:

- Điều 125 BLLĐ 2012 không quy định hình thức kỷ luật buộc thôi việc. Do đó, Quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B xử lý kỷ luật chị H bằng hình thức buộc thôi việc là không phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động. Tuy nhiên, xét về bản chất, thì buộc thôi việc cũng làm chấm dứt quan hệ lao động và áp dụng đối với người lao động vi phạm kỷ luật lao động, tương tự như hình thức sa thải quy định tại khoản 3 Điều 125 BLLĐ năm 2012. Như vậy, việc áp dụng hình thức buộc thôi việc thực chất sa thải người lao động.

- Việc mất chìa khóa két đã được chị H thừa nhận. Sau khi mất chìa khóa, chị H đã báo cáo với giám đốc quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B; két đã được kiểm tra vào ngày 20/6/2016; bản thân chị H đã bỏ tiền mua két mới thay thế. Đối chiếu với quy định tại Điều 129 BLLĐ như nêu trên, thì việc tạm đình chỉ đối với chị H là không có căn cứ. Mặt khác, việc tạm đình chỉ công tác với chị H trong thời hạn 90 ngày là 7 vi phạm quy định, Chị Hbị tạm đình chỉ trái pháp luật, do đó, Quỹ phải thanh toán cho chị H tiền lương trong thơi gian bị tạm đình chỉ.

- Quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B có trách nhiệm trả tổng số tiền là 65.415.000 đồng cho chị H.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H đối với Quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B, huyện CX, tỉnh HT, cụ thể như sau:

+ Buộc quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B, huyện CX, tỉnh HT phải có trách nhiệm nhận chị Nguyễn Thị H vào làm việc tại Quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B với chức danh chuyên môn thủ quỹ kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

+ Chấp nhận về việc Quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B ban hành Quyết định số 11/QĐ – HĐQT ngày 23/8/2017 để hủy quyết định buộc thôi việc số 37/QĐ-GĐ ngày 29/12/2016 của quỹ tín dụng dụng nhân dân xã Cẩm B đối với chị Nguyễn Thị H

+ Buộc Quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B trả cho chị H tổng số tiền là 65.415.000.

+ Buộc quỹ tín dụng nhân dân xã Cẩm B có trách nhiệm đóng nộp tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp liên tục cho chị Nguyễn Thị H trong thời gian bị tạm đình chỉ công tác, thời gian bị buộc thôi việc.

1-12

   2

Bản án số: 11/2019/LĐ-PT ngày 14/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai

Về: “Tranh chấp kỷ luật buộc thôi việc”

Nội dung:

- Ngày 28/6/2016, Hiệu trưởng Trường A ban hành Quyết định kỷ luật số: 90/QĐ buộc thôi việc đối với ông L. Không đồng ý quyết định kỷ luật, ông L khiếu nại đến Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai. Ngày 12/10/2016, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số: 1020/QĐ-SGD ĐT với nội dung yêu cầu Hiệu trưởng Trường A hủy bỏ Quyết định số: 90/QĐ, ngày 28/6/2016 đồng thời khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp cho ông L.

- Ngày 12/11/2016, Hiệu trưởng Trường A ban hành Quyết định số: 176/QĐ-THPT.LHP hủy bỏ Quyết định số: 90/QĐ, ngày 28/6/2016. Ông L tiếp tục công tác nhưng Trường A không bố trí công việc theo hợp đồng đã ký kết. Đến ngày 07/12/2016, Hiệu trưởng Trường A tiếp tục ban hành Quyết định số: 201/QĐ kỷ luật buộc thôi việc do ông L có các hành vi: Vi phạm quy định về đạo đức nhà giáo; vi phạm quy định dạy thêm, học thêm và không chấp hành sự phân công của lãnh đạo gây ảnh hưởng chung đến công việc của đơn vị.

- Ông L nhận thấy Trường A xử lý kỷ luật buộc thôi việc không đúng quy định của pháp luật. Do đó, ông L khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Trường A phải:

+ Nhận trở lại làm việc theo hợp đồng làm việc đã ký và khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp;

+ Trả tiền lương từ ngày 07/12/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm 31/7/2018 với số tiền: 5.935.000 đồng x 19 tháng = 112.765.000 đồng.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Tại Bản án lao động sơ thẩm số: 09/2018/LĐ-ST, ngày 31 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B đã quyết định:

Tuyên xử:

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn L về việc yêu cầu Trường A nhận trở lại làm việc; trả tiền lương từ ngày 07/12/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm với số tiền 112.765.000 đồng.

- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn L về việc buộc bị đơn phải: Bồi thường 4,5 tháng tiền lương do chấm dứt hợp đồng trái pháp luật; trả

tiền trợ cấp thôi việc từ tháng 9/2006 đến ngày 31/12/2008; đóng BHXH, BHYT, BHTN và chốt sổ bảo hiểm xã hội, nếu không nộp các khoản tiền này thì phải trả cho nguyên đơn số tiền 5.274.720 đồng; trường hợp không nhận nguyên đơn trở lại làm việc thì phải bồi thường 4,5 tháng tiền lương.

Ngày 09/8/2018, ông Hồ Văn L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị TAND tỉnh Đồng Nai xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn do Quyết định kỷ luật số: 90/QĐ, ngày 28/6/2016 đã bị Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai yêu cầu hủy bỏ do không có căn cứ. Ông L không có các hành vi: Vi phạm về đạo đức nhà giáo; vi phạm quy định dạy thêm, 4 học thêm và không chấp hành sự phân công của lãnh đạo gây ảnh hưởng đến công việc chung của đơn vị. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Tòa án phúc thẩm nhận định:

- Trường A xử lý kỷ luật ông L trong thời hạn xử lý kỷ luật, có căn cứ pháp luật và thẩm quyền, trình tự, thủ tục đúng quy định pháp luật. Do đó, Quyết định số: 201/QĐ-THPT.LHP, ngày 07/12/2016 kỷ luật buộc thôi việc và Quyết định số: 205/QĐ-THPT.LHP, ngày 09/12/2016 chấm dứt hợp đồng làm việc đối với ông L của Trường A là đúng quy định pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L là có cơ sở.

- Kháng cáo của ông L là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm

Tòa án phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Hồ Văn L, giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số: 09/2018/LĐ-ST, ngày 31 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, giữ nguyên bản án sơ thẩm

13-22

   3

Bản án số: 04/2019/LĐ-PT ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

Về: Tranh chấp hủy quyết định buộc thôi việc và bồi thường hợp đồng làm việc

Nội dung:

Ngày 22/6/2015, bà T bị Ủy ban nhân dân Thị xã K kỷ luật buộc thôi việc với lý do: Ngày 18/12/2014, bà T đã bị Ủy ban nhân dân Thị xã K xử lý kỷ luật theo hình thức cảnh cáo. Tuy nhiên, bà T không khắc phục lại tiếp tục có hành vi lấy cắp sữa uống của học sinh, để vợ chồng ông Huỳnh Văn L vào cổng trường gây mất trật tự, vi phạm việc dạy thêm cho học sinh và nhận 300.000đ của phụ huynh. Trong quá trình làm việc, bà T thừa nhận có một số vi phạm (lấy 1 bịch sữa của học sinh, ông L có vào trường trao đổi với bà T về vấn đề tiền còn thiếu, không gây mất trật tự) nên bị Hội đồng nhà trường kiểm điểm. Sau đó, Ủy ban nhân dân Thị xã K ban hành quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với bà T. Việc Ủy ban nhân dân Thị xã K kỷ luật buộc thôi việc đối với bà T là sai thẩm quyền vì thẩm quyền kỷ luật bà T là của Hiệu trưởng Trường mẫu giáo H; trình tự ban hành quyết định kỷ luật sai vì Ủy ban nhân dân Thị xã K căn cứ Tờ trình số 535/TTr-PGDĐT ngày 17/6/2015 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Thị xã K và ý kiến đề xuất của Phòng Nội vụ; căn cứ buộc thôi việc sai vì vi phạm của bà T chưa đến mức buộc thôi việc mà chỉ ở mức cảnh cáo.

Do đó, bà T khởi kiện yêu cầu:

1. Hủy Quyết định số 1571/QĐ-UBND ngày 22/6/2015 của Ủy ban nhân dân Thị xã K về việc thi hành kỷ luật buộc thôi việc đối với bà T;

2. Buộc Ủy ban nhân dân Thị xã K nhận bà T trở lại làm việc và bồi thường các khoản tiền sau:

2.1. Tiền lương trong những ngày bà T không được làm việc tính từ ngày bà T bị kỷ luật buộc thôi việc (ngày 22/6/2015) đến ngày 22/10/2018 là 52 tháng với số tiền là 344.705.036đ;

2.2. Hai tháng tiền lương do kỷ luật buộc thôi việc đối với bà T trái pháp luật với số tiền là 13.257.886đ;

2.3. Tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là 62.377.380đ.

Tổng cộng là: 420.340.302đ.

3. Trong trường hợp Ủy ban nhân dân Thị xã K không nhận bà T trở lại làm việc thì phải bồi thường thêm hai tháng tiền lương để chấm dứt hợp đồng làm việc với số tiền là 13.257.886 đồng, tổng cộng là: 433.598.188 đồng.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Tại bản án lao động sơ thẩm 01/2018/LĐ-ST ngày 05 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị Thu T về việc “Tranh chấp yêu cầu hủy quyết định buộc thôi việc và bồi thường hợp đồng làm việc” đối với Uỷ ban nhân dân Thị xã K. Hủy Quyết định số 1571/QĐ-UBND ngày 22/6/2015 của Uỷ ban nhân dân Thị xã K về việc thi hành kỷ luật bà Đinh Thị Thu T với hình thức kỷ luật buộc thôi việc.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị Thu T về việc yêu cầu Uỷ ban nhân dân Thị xã K nhận bà T trở lại làm việc và bồi thường hợp đồng làm việc với số tiền 420.340.302 đồng.

- Ngày 15/12/2018 ông Thạch Minh N là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn.

- Ngày 18/12/2018 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An có quyết định kháng nghị số 155/QĐ-VKS-LĐ kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm công nhận quyết định số 1571/QĐ-UBND ngày 22/6/2015 của Uỷ ban nhân dân Thị xã K.

Tòa án phúc thẩm nhận định:

- Xét nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An: Trường mẫu giáo H là đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn (chỉ có con dấu và tài khoản, còn việc tuyển dụng, sử dụng và chi trả lương đối với viên chức là do Uỷ ban nhân dân Thị xã K quản lý) nên thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 48 Luật Viên chức năm 2010. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Điều 1, Nghị định 27 cho rằng thẩm quyền xử lý thuộc về người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập là không đúng quy định của Luật Viên chức. Nghị định 27 chỉ hướng dẫn thi hành đối với khoản 2 Điều 48 Luật Viên chức mà không đề cập đến khoản 3 Điều 48. Trường hợp của bà T phải căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật Viên chức để xác định thẩm quyền xử lý kỷ luật. Do vậy, Uỷ ban nhân dân Thị xã K ban hành quyết định số 1571/QĐ-UBND ngày 22/6/2015 là đúng thẩm quyền.

- Về trình tự thủ tục, nội dung quyết định 1571: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ, nhận định việc áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với bà T là có căn cứ. Nguyên đơn kháng kháng cáo bản án sơ thẩm nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Do việc thi hành kỷ luật là đúng quy định pháp luật nên không chấp nhận yêu cầu nhận bà T trở lại làm việc và bồi thường hợp đồng làm việc của nguyên đơn.

- Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận nội dung quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân tỉnh Long An và không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Thạch Minh N. Chấp nhận nội dung quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An, sửa bản án sơ thẩm.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị Thu T về việc yêu cầu hủy Quyết định số 1571/QĐ-UBND ngày 22/6/2015 của Uỷ ban nhân dân Thị xã K về việc thi hành kỷ luật bà Đinh Thị Thu T với hình thức kỷ luật buộc thôi việc.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị Thu T về việc yêu cầu Uỷ ban nhân dân Thị xã K nhận bà T trở lại làm việc và bồi thường hợp đồng làm việc với số tiền 420.340.302 đồng.

23-31

   4

Bản án số: 01/2020/LĐ-PT ngày 12/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau

Về: “Tranh chấp về xử lý kỷ luật buộc thôi việc và bồi thường thiệt hại

Nội dung:

Vào ngày 17/12/2018, bà nhận được Quyết định số 14/QĐ–THCSTHĐ ngày 14/12/2018 về việc “kỷ luật viên chức” do ông Phạm Bá Q, Hiệu trưởng trường THCS Tân Hưng Đ ký, với nội dung buộc thôi việc đối với bà lý do ông Q cho rằng bà không chấp hành sự phân công của Hiệu trưởng và nghỉ việc không có lý do 36 ngày làm việc (kể từ ngày 06/9/2018 đến ngày 18/10/2018). Bà cho rằng ông Q Quyết định buộc thôi việc bà đã vi phạm khoản 2 Điều 59 Luật công chức, viên chức năm 2010; Điều 14, 15 của Thông tư 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012; Điều 25 Nghị định số 29/2012/NĐCP của Chính Phủ về việc phân công nhiệm vụ viên chức; trong Quyết định kỷ luật cho rằng bà nghỉ việc 36 ngày là không chính xác vì trong thời gian nghỉ thì bà có khiếu nại về việc phân công nhiệm vụ từ giáo viên thành nhân viên và có yêu cầu được nhận Quyết định phân công nhiệm vụ từ giáo viên thành nhân viên nhưng ông Q không cung cấp. Quyết định trên của Hiệu trưởng trường THCS Tân Hưng Đ là vi phạm pháp luật và xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà, nên bà đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết cho bà những yêu cầu sau:

1. Yêu cầu hủy Quyết định số 14/QĐ-THCSTHĐ ngày 14/12/2018 về việc “Kỷ luật viên chức” do ông Phạm Bá Q Hiệu trưởng Trường THCS Tân Hưng Đ ký.

2. Yêu cầu nhận bà trở lại làm việc và phân công công việc theo đúng chuyên môn của bà.

3. Yêu cầu Hiệu trưởng Trường THCS Tân Hưng Đ phải thanh toán tiền lương cho bà trong thời gian bị thôi việc đến khi nhận bà trở lại làm việc gồm các khoản sau: Chi phí mất thu nhập là 36 tháng lương hiện hưởng 1.390.000 x 36 tháng = 50.040.000 đồng + Các khoản phụ cấp 3.037. 529 đồng x số tháng bà bị buộc thôi việc (từ tháng 10/2018 đến khi bà được trở lại làm việc) Chi phí pháp luật liên quan đến việc thực hiện khởi kiện trong vụ án 30.000.000 đồng. Chi phí điều trị bệnh do ảnh hưởng tinh thần bị sa sút: 790.000 đồng.

4. Yêu cầu ông Phạm Bá Q – Hiệu trưởng Trường THCS Tân Hưng Đ xin lỗi công khai trước tập thể và đăng 3 kỳ báo gồm Báo Công lý, Báo Tiền Phong và Báo Cà Mau.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

- Tại bản án lao động sơ thẩm số 01/2019/LĐ-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước đã quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu của bà Hoàng Thị Hoài T đối với ông Phạm Bá Q. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 10/12/2019 nguyên đơn là bà T kháng cáo yêu cầu hủy Quyết định số 14/QĐ – THCSTHĐ ngày 14/12/2018 về việc “kỷ luật viên chức” do ông Phạm Bá Q, Hiệu trưởng Trường THCS Tân Hưng Đ ký và nhận bà trở lại làm việc.

Tòa án phúc thẩm nhận định:

- Theo Quyết định số 14/QĐ– THCSTHĐ ngày 14/12/2018 thể hiện do bà T không chấp hành sự phân công của Hiệu trưởng và nghĩ việc không có lý do 36 ngày làm việc kể từ ngày 06/9/2018 đến ngày 18/10/2018. Bà T thừa nhận do không đồng ý việc Hiệu trưởng phân công bà làm nhân viên thư viện nên bà không vào Phòng thư viện mà chỉ ngồi ở Văn phòng trong các ngày làm việc và đã nghĩ việc không lý do khoảng 10 ngày nhưng bà T không có chứng cứ chứng minh thời gian nghĩ việc của bà T là 10 ngày. Việc bà T không vào Phòng thư viện để làm nhiệm vụ cho mượn sách báo theo Quyết định phân công nhiệm vụ của Hiệu trưởng, mặc dù có nhiều biên bản nhắc nhở bà T nhưng bà T vẫn không chấp hành. Điều này thể hiện bà T không 5 chấp hành sự phân công của Hiệu trưởng. Theo quy định tại khoản 5 Điều 13 Nghị định 27/2012-NĐ-CP ngày 06/4/2012 quy định về xử lý kỷ luật viên chức với hình thức buộc thôi việc “Tự ý nghỉ việc, tổng số từ 07 ngày làm việc trở lên trong một tháng hoặc từ 20 ngày làm việc trở lên trong một năm mà không có lý do chính đáng được tính trong tháng dương lịch; năm dương lịch;” Như vậy lý do kỷ luật buộc thôi việc đối với bà T là đúng

- Việc bà T không chấp hành sự phân công của Hiệu trưởng và đã có đơn khiếu nại đã được Phòng Giáo dục và Đào tạo có văn bản trả lời không chấp nhận khiếu nại của bà T nhưng bà T không chấp hành và đã tự ý nghĩ việc nên Hiệu trưởng ban hành Quyết định số 14/QĐ-THCSTHĐ để kỷ luật buộc thôi việc bà T là đúng.

- Xét thấy quyết định số 14/QĐ-THCSTHĐ ngày 14/12/2018 do ông Phạm Bá Q là Hiệu trưởng Trường THCS Tân Hưng Đ ban hành là đúng thẩm quyền và lý do buộc thôi việc bà T là đúng nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T về việc hủy Quyết định và nhận bà trở lại làm việc. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Hoàng Thị Hoài T.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 01/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước.

32-37

   5

Bản án số: : 03/2020/LĐ-PT ngày 20/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng

Về: Tranh chấp về xử lý kỷ luật theo hình thức buộc thôi việc viên chức và tranh chấp về bồi thường tiền lương, phụ cấp, các khoản tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp”

Nội dung:

- Ông H được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng điều động đến nhận công tác tại Trường Trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kh từ ngày 10/8/2006. Quá trình công tác giữa ông và Hiệu trưởng Trường Huỳnh Thúc Kh phát sinh mâu thuẫn nên ngày 28/02/2013 ông Nguyễn Duy Tr, Hiệu trưởng, ban hành Quyết định số 03/2013/QĐ-TPPT-HTK xử lý kỷ luật buộc thôi việc đối với ông. Ngày 14/3/2013 ông làm đơn khiếu nại đến Hiệu trưởng Trường Huỳnh Thúc Kh yêu cầu xem xét lại quyết định buộc thôi việc. Ngày 08/4/2013 Hiệu trưởng Trường Huỳnh Thúc Kh ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 06/2013/QĐ-HTK có nội dung: không chấp nhận nội dung đơn khiếu nại, giữ nguyên toàn bộ Quyết định kỷ luật buộc thôi việc theo Quyết định số 03/2013/QĐ-HTK ngày 28/02/2013

- Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại nói trên, ông tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi đến Sở GD&ĐT tỉnh Lâm Đồng. Ngày 21/10/2013 Sở GD&ĐT tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết định số 965/QĐ-SGDĐT về việc giải quyết khiếu nại lần 2 và chấp nhận một phần nội dung khiếu nại, yêu cầu Hiệu trưởng Trường Huỳnh Thúc Kh tổ chức Hội đồng kỷ luật để xét lại kỷ luật những vi phạm quy chế chuyên môn của ông nhưng Hiệu trưởng Trường THPT Huỳnh Thúc Kh không thực hiện, nay ông khởi kiện yêu cầu:

+ Hủy Quyết định số 03/2013/QĐ-THPT-HTK ngày 28/02/2013 của Hiệu trưởng Trường Huỳnh Thúc Kh về việc kỷ luật buộc thôi việc.

 + Yêu cầu Trường Huỳnh Thúc Kh xin lỗi công khai và tiếp tục duy trì bố trí công tác giảng dạy theo quy định của pháp luật, bồi thường cho ông các khoản tiền lương, phụ cấp thâm niêm, tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ tháng 3/2013 đến tháng 9/2016 với tổng số tiền là 231.016.750đ

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Tại Bản án số 01/2016/LĐ-ST ngày 15/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Lâm Đồng tuyên xử:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Cao Xuân H về việc “Tranh chấp lao động về xử lý kỷ luật theo hình thức buộc thôi việc viên chức và yêu cầu bồi thường thiệt hại” giữa nguyên đơn ông Cao Xuân H và bị đơn Trường Huỳnh Thúc Kh.

- Hủy Quyết định số 03/2013/QĐ-THPT-HTK ngày 28/02/2013 của Hiệu trưởng Trường Huỳnh Thúc Kh về việc xử lý kỷ luật buộc thôi việc đối với ông Cao Xuân H.

- Buộc Trường Huỳnh Thúc Kh nhận ông Cao Xuân H trở lại làm việc theo quy định của pháp luật và thanh toán tiền lương, tiền phụ cấp khu vực, tiền thâm niên nghề, tiền BHYT, BHXH tính từ tháng 3/2013 đế ngày 15/9/2016 với số tiền 227.104.570đ và phục hồi quyền lợi BHYT, BHXH, BHTN cho ông Cao Xuân H theo quy định của pháp luật.

- Bác một phần yêu cầu khởi kiện của ông Cao Xuân H về việc yêu cầu Trường Huỳnh Thúc Kh xin lỗi công khai

Tại Bản án Lao động phúc thẩm số 01/2017/LĐ-PT ngày 30/3/2017; Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã xử:

- Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn Trường Huỳnh Thúc Kh đối với nguyên đơn ông Cao Xuân H.

- Sửa Bản án Lao động sơ thẩm số 01/2016/LĐ-ST ngày 15/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện L Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Cao Xuân H đối với bị đơn Trường Huỳnh Thúc Kh

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 02/2019/LĐ-GĐT ngày 03/7/2019; Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H đã giải quyết:

- Hủy Bản án Lao động phúc thẩm số 01/2017/LĐ-PT ngày 30/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật

Tòa án phúc thẩm nhận định:

Trường Huỳnh Thúc Kh xử lý kỷ luật buộc thôi việc đối với ông H khi cho rằng ông H không tuân thủ quy trình, quy định chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử trong khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, Trường Huỳnh Thúc Kh không đưa ra được căn cứ chứng minh được việc hành vi vi phạm của ông H gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ luật Lao động thì “người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động”

Theo Quyết định giải quyết khiếu nại số 965/QĐ-SGDĐT ngày 21/10/2013 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lâm Đồng, tại Điều 1 của Quyết định nêu rõ “Yêu cầu Trường Huỳnh Thúc Kh tổ chức Hội đồng kỷ luật để xét lại kỷ luật những vi phạm quy chế chuyên môn của ông Cao Xuân H........”; tuy nhiên Trường Huỳnh Thúc Kh vẫn chưa tổ chức Hội đồng kỷ luật để xét kỷ luật đối với ông H theo nội dung chỉ đạo nêu trên mà vẫn giữ nguyên Quyết định 03/2013/QĐ-THPT-HTK ngày 28/02/2013 buộc thôi việc đối với ông H. Mặt khác tại Biên bản họp Hội đồng kỷ luật ngày 22/02/2013 xét hình thức kỷ luật đối với ông H chỉ ghi chung chung ông H đã vi phạm Điều 9, 10, 11, 13 Nghị định số 27/2012/NĐ-CP của Chính phủ mà không xác định cụ thể ông H có những vi phạm gì, thể hiện tại các điều luật nào để áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn đối với ông H là trái với quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Do đó cần hủy toàn bộ quyết định nêu trên là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

1. Xác định quan hệ tranh chấp giữa các bên là: “Tranh chấp về xử lý kỷ luật theo hình thức buộc thôi việc viên chức và tranh chấp về bồi thường tiền lương, phụ cấp, các khoản tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp”.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cao Xuân H

3. Hủy Quyết định số 03/2013/QĐ-THPT-HTK ngày 28/02/2013 của Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kh về việc xử lý kỷ luật buộc thôi việc đối với ông Cao Xuân H.

4. Buộc Trường Trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kh phải nhận ông Cao Xuân H trở lại làm việc theo quy định của pháp luật và thanh toán tiền lương, tiền phụ cấp khu vực, tiền thâm niên nghề, tiền bảo hiểm y tế, tiền bảo hiểm xã hội tính từ tháng 3/2013 đến ngày 15/9/2016 với số tiền 227.104.570đ.

38-48

LINK PDF: Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp xử lý kỷ luật lao động theo hình thức buộc thôi việc

……………..

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Các bài viết khác

Hotline tư vấn:
Zalo